Nền văn minh Maya là nền văn minh cổ đặc sắc bên cạnh nền văn minh Andes, được xây dựng bởi người Maya, một bộ tộc thổ dân châu Mỹ mà từ 2000 năm trước đây đã từng sinh sống ở bán đảo Yucatán của Trung Mỹ, thuộc đông nam Mexico, Bắc Guatemala và Honduras ngày nay.
Nền văn minh Maya đạt một trình độ cao không những về lĩnh vực xây dựng nhà nước mà còn phát triển rực rỡ cả lĩnh vực kiến trúc, toán học, thiên văn học và tính toán thời gian.
Căn cứ vào các di vật khám phá ngày càng phong phú, người ta xác định được rằng vào khoảng thế kỷ thứ 1 các quốc gia cổ đại của người Maya đã được thành lập. Phần lớn các quốc gia người Maya bị diệt vong do nhiều lý do ở vào khoảng thế kỷ thứ 9 đến thế kỷ thứ 10. Duy chỉ có quốc gia thành thị trên bán đảo Yucatán, thuộc Mexico tiếp tục tồn tại cho đến khi thực dân Tây Ban Nha đến xâm chiếm vùng này vào thế kỷ 16. Hậu quả của cuộc xâm lăng đã tàn phá rất nhiều các di sản của người Maya.
Nền kinh tế của người Maya chủ yếu dựa vào nông nghiệp và phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện tự nhiên như khí hậu. Các sản phẩm trồng trọt của người Maya chủ yếu là ngô, đậu, cà chua, bí đỏ, ca cao... Người Maya cũng lấy chăn nuôi làm sản phẩm chính sau trồng trọt. Họ chăn nuôi các loại động vật như, chó, gà, hươu, nai, chim, ong mật... Các sản phẩm thủ công mỹ nghệ của người Maya cũng đạt đến một trình độ rất cao. Ngoài ra, người Maya còn biết làm muối với những khu vực rộng lớn và độc đáo.
Khởi đầu nền văn minh Maya
Khảo cổ học chứng minh rằng người Maya có những công trình xây dựng đầu tiên có niên đại vào khoảng năm 1000 TCN. Có một vài bất đồng quan điểm về ranh giới văn hóa và địa lý của Maya cổ với những nền văn minh Trung Mỹ tiền cổ điển lân cận, bởi vì có rất nhiều nền văn hóa có những khu vực trùng lấp và ảnh hưởng lẫn nhau, nhưng về sau có sự phát triển riêng và tạo ra văn hóa đặc sắc riêng của mình.
Những công trình đầu tiên của người Maya là những ngôi mộ đơn lẻ trên các đồi cao, tiền đề cho những kiến trúc kiểu kim tự tháp được xây dựng về sau này. Cuối cùng, văn hóa Olmec lụi tàn sau khi ảnh hưởng đến bán đảo Yucatán, ngày nay thuộc Mexico, và các vùng khác ở Nam Mỹ.
Những bằng chứng về văn minh Maya có các thành phố nổi tiếng Tikal, Palenque, Copán và Kalakmul, cũng như Dos Pilas, Uaxactun, Altun Ha,Bonampak và rất nhiều vị trí khác trong vùng. Họ chứng minh cho thấy một trình độ cao về nông nghiệp, các trung tâm đô thị sầm uất của nhiều quốc gia đô thị độc lập. Rất nhiều các công trình tôn giáo kiểu kim tự tháp nổi tiếng của họ được xây dựng trong các trung tâm quyền lực của người Maya. Rất nhiều các tác phẩm chạm khắc trên phiến đá còn lại ngày nay (người Maya gọi là tetun, hoặc là cây-đá), khắc chữ tượng hình mô tả về sự cai trị theo phả hệ, các chiến thắng của cuộc chiến, và các thành tựu khác.
Người Maya đã có quá trình buôn bán lâu dài ở Trung Mỹ và có lẽ còn xa hơn nữa. Những sản vật được buôn bán trao đổi chính là cacao, muối và đá vỏ chai (obsidian).
Suy tàn của Maya
Vào khoảng thế kỷ thứ 8 và 9, nền văn minh Maya bắt đầu suy tàn, với rất nhiều các thành phố ở các vùng đất thấp bị bỏ hoang. Các cuộc chiến tranh đã nhanh chóng vắt kiệt nguồn lực và con người Maya, cộng với khí hậu thay đổi, dẫn đến hạn hán và kết hợp nhiều lý do mà dẫn đến sự suy vong của văn minh Maya. Các khảo cổ đã chứng minh các yếu tố như xung đột, đói kém và các cuộc nổi dậy từ trung tâm quyền lực và ở các vùng đất thấp. Những chứng cứ mà các nhà khoa học chứng minh được rằng vào thế kỷ thứ 9 ở đây có một biến động gây hạn hán tồi tệ nhất trong 7000 năm mới xảy ra một lần này đã góp phần làm suy kiệt văn minh Maya. Tuy nhiên đó không phải là nguyên nhân duy nhất cho sự suy tàn của văn minh Maya.
Xã hội và thể chế của người Maya
Chính trị điển hình của người Maya là các vương quốc nhỏ (ajawil, ajawlel, ajawlil) đứng đầu bởi truyền thống cha truyền con nối – ajaw, sau này là k’uhul ajaw. Cả hai điều khoản viết trongColonial thời kỳ đầu, bao gồm Papeles de Paxbolón xem bất kỳ nơi nào đồng nghĩa với các điều khoản đã có của Aztec với Tây Ban Nha về chủ quyền lãnh thổ và sự thống trị tối cao của họ -tlahtoani (Tloloanni) và tlahtocayotl. Thông thường thì các vương quốc không lớn hơn thủ đô, mà chỉ vài ba thị trấn vừa, nhưng ở đó lại là những vương quốc vĩ đại, có tầm cai trị lãnh thổ rộng lớn và bảo trợ các thể chế nhỏ hơn trong tầm quốc gia. Mỗi một vương quốc có tên của nó không nhất thiết tương quan đến bất kỳ vùng lãnh thổ của họ. Sự đồng nhất là các đơn vị chính thể liên hệ với cùng một triều đại thống trị.
Tôn giáo của người Maya
Xem bài chính: Tôn giáo Maya
Tương tự như người Aztec và Inca, là những phát triển muộn hơn, người Maya tin tưởng vào một chu kỳ tự nhiên của thời gian. Những nghi thức và nghi lễ là những sự kết hợp tỷ mỉ của chu kỳ vũ trụ/Trái Đất, thành một đối tượng nghiên cứu quan sát và ghi chép như một cuốn lịch riêng biệt. Các thầy pháp Maya có nhiệm vụ phân tích các chu kỳ này và đưa ra những tiên đoán cho tương lai hoặc cơ sở của quá khứ trên những con số tương quan của tất cả các loại lịch của họ.
Rất nhiều tín ngưỡng truyền thống của người Maya cho đến nay làm lúng túng các nhà khoa học, nhưng lại được hiểu biết của người Maya, giống như rất nhiều xã hội cân đại, họ tin rằng vũ trụ có ba (3) mặt phẳng chính, địa ngục, thiên đường và trần gian. Địa ngục của người Maya là ở trong khoảng đi xuyên qua các hang động và bên dưới mặt đất, nó được cai quản bởi một vị thần Maya cao niên của sự chết và thối rữa. Mặt Trời và Itzamna, cả hai đều là vị thần cao niên ăn sâu vào tiềm thức Maya, là các vị thần của thiên đường. Bầu trời đêm có ý chỉ một cửa sổ cho thấy tất cả các siêu nhiên đi đến. Người Maya định hình các chòm sao của thần linh và nơi ở, mà tục ngữ truyền khẩu về sự biến động theo mùa, tin tưởng rằng sự giao cắt của tất cả thế giới là bầu trời đêm.
Thần của người Maya không riêng biệt, như trong các quan niệm của người Hy Lạp. Thần của người Maya cùng một diện mạo do họ hợp nhất vào với nhau trên mọi nẻo đường mà không có giới hạn. Đó chắc chắn là một thế lực siêu phàm trong quan niệm tín ngưỡng của người Maya. Đặc tính "tốt" và "xấu" không phải là điều cố định trong các thần của Maya, không chỉ có một mặt "tốt" tuyệt đối. Cái nào không thích hợp trong suốt một mùa có thể làm nên một sự bắt đầu chu kỳ mới trong quan niệm của tín ngưỡng Maya và không cố định.
Văn minh chữ viết
Hệ thống chữ viết Maya là một chuỗi của các ký hiệu âm và dấu tốc ký. Nó được xác định như những ký hiệu tốc ký hay hệ thống chữ viết dưới dạng biểu trưng, mà các ký hiệu biểu thị một từ có chủ đích. Chúng là một hệ thống chữ viết duy nhất của tiền thời kỳ Tân Thế Giới của Colombo dùng để trình bày một thứ ngôn ngữ của dân địa phương. Trong tổng thể, hệ thống chữ viết của người Maya có hơn 1000 kí hiệu khác nhau, mặc dù có một vài các ký hiệu có thay đổi cách viết và ý nghĩa từ, nhưng rất nhiều bản viết thể hiện rất ít khác nhau ở các địa điểm khác nhau.
Văn minh kiến trúc
Độc đáo và hiếm có đó là nhận xét về kiến trúc của người Maya, giống như kiến trúc Hy Lạp cổ đại và kiến trúc La Mã, kiến trúc của người Maya có hàng nghìn năm tuổi, rất đa dạng và tuyệt đẹp cho những xây dựng kiểukim tự tháp có bậc ở khắp lãnh thổ Nam Mỹ.
Với người Maya, hang động cũng là một phần quan trọng của họ. Trong số những hang động, phải kể đến hang Jolja, bên trong hang Naj Tunich, hang Candelaria và hang của Phù thủy (Cave of the Witch). Ở đây chính là các hang thần thoại nguyên thủy của những người Maya. Một vài hang động hiện nay vẫn được sử dụng cho người Maya hiện đại ở đảo Chiapas.
Nó gợi cho chúng ta thấy, bên trong sự kết hợp của lịch đếm chiều dài Maya, mỗi 52 năm, hoặc chu kỳ, các đền đài và kim tự tháp được sửa chữa và xây dựng lại. Nó nói rằng ngay bây giờ phải xây dựng là thức dục một sự cai trị mới hoặc cho vấn đề chế độ, giống như sự tương phản tuần tự như trong chu kỳ của lịch. Tuy nhiên, quy trình xây dựng lại trên đỉnh của công trình cũ là một việc làm bình thường. Rất nhiều phải kể, North Acropolis ở Tikal được xem như là tổng thể của 1.500 năm của sự biến đổi kiến trúc.
Thông qua sự nghiên cứu của số lượng lớn yếu tố đặc sắc và kiểu dáng độc đáo, những di sản còn lại của kiến trúc Maya có một tầm quan trọng để mở ra tầm hiểu biết về quá trình phát triển của Văn minh Maya.
Nghệ thuật Maya
Nhiều người xem nghệ thuật Maya ở Kỷ nguyên Kinh Điển của họ (khoảng từ năm 200 đến 900) là rất tinh xảo và đẹp nhất của Tân Thế Giới cổ. Những tác phẩm chạm khắc và nghệ thuật đắp nổi bằng vữa tường ở Palenque và những tượng của Copán đáng ngưỡng mộ, phô bày dáng vẻ tinh tế, yêu kiều, chính xác của con người ở Nam Mỹ làm các nhà khảo cổ nhớ đến các nền văn minh kinh điển của Cựu Thế Giới, mà ban tặng cho cái tên quý giá trên.
Ngoài những tác phẩm hội họa kinh điển Maya, còn rất nhiều những đồ gốm tùy táng hay hiến tế với độ chắc chắn và tinh xảo. Tại công trình của Maya ở Bonampak còn lưu giữ những bức tranh tường cổ đại với vẻ đẹp trường tồn. Cùng với việc giải mã các chữ viết của người Maya, các nhà khoa học cũng biết được rất nhiều nghệ sỹ tài ba Maya được nhắc đến cùng với tên tuổi và công việc của họ trong quá khứ xa xôi.
Công nghệ của người Maya
Nền văn minh Maya có nhiều thành tựu trong lĩnh vực kĩ thuật công nghệ. Những thời kỳ đầu, thuộc thời đại đồ đá, người Maya đã sử dụng và chế tác thành thạo các dụng cụ cắt gọt từ đá núi lửa (obsidian), về sau người Maya đã biết đến kim loại khá sớm. Một vấn đề đã được giải thích khá sáng tỏ về các con đường lớn tại sao không được xây dựng ở đây, đó là do ở châu Mỹ không có các loại gia súc như bò, ngựa hay la để phục vụ cho việc kéo xe.
Một kỹ thuật nổi trội của người Maya là biết sử dụng và chế biến cao su đã lưu hóa vào các dụng cụ và thể thao hàng ngày. Người Maya gây kinh ngạc cho những người Tây Ban Nha thời kỳ đầu ở các trò chơi bằng bóng cao su và sức khỏe của dân da đỏ rất tốt. Những sân chơi bóng của người Maya khổng lồ và có số lượng người tham gia và đến xem cổ vũ rất lớn, một sinh hoạt có tính cộng đồng rất cao. Người Maya biết sử dụng cao su bọc lót cho các dụng cụ có tay cầm như, dao, vũ khí... và biết làm ra những đôi giày từ cao su không thấm nước.
Người Maya biết nắm chắc kỹ thuật làm muối và sử dụng chúng như những hàng hóa để trao đổi với các cư dân khác trong vùng. Những di chỉ làm muối khổng lồ đã được khám phá.
Việc xây các kim tự tháp của người Maya được tính toán rất chính xác theo các quan niệm vũ trụ và các loại lịch của họ, họ ghi chép và tính toán khá chính xác các chu kỳ thiên nhiên tại đây và có các biện pháp để đối phó. Họ sử dụng các thiết kế về thời gian và tạo ra những chiếc "đồng hồ" các dạng để xác định thời gian.
Nhiều bí mật về công nghệ còn được khám phá, nhưng những di sản của người Maya gây không ít kinh ngạc cho các nhà khảo cổ học của Cựu Thế Giới.
Toán học của người Maya
Cùng phát triển với các nền văn minh Trung Mỹ khác, người Maya sử dụng hệ đếm nhị thập phân (vigesimal) và hệ ngũ phân (xem chữ số Maya). Hệ ngũ phân trên cơ sở so sánh với số ngón tay của một bàn tay, còn nhị thập phân là toàn bộ số ngón tay và ngón chân. Trong tiếng Quiche, từ chỉ số 20 làhuvinak, có nghĩa là "toàn thân". Ngoài ra, người Maya đã phát triển khái niệm "số 0" vào năm 357, sớm hơn châu Âu khoảng gần 900 năm. Văn bản cổ cho thấy, những người Maya, có nhu cầu công việc cộng vào hàng trăm triệu và số ngày lớn đòi hỏi phải có phương cách chính xác để thực hiện chúng. Kết quả tính toán về thiên văn học theo một không gian và thời gian dài là cực kỳ chính xác; bản đồ về sự vận động của Mặt Trăng và các hành tinh là ngang bằng hoặc vượt xa các văn minh khác quan sát vũ trụ bằng mắt thường.
Người Maya xác định chính xác độ dài của một năm gồm 365 ngày, thời gian Trái Đất quay hết một vòng quanhMặt Trời, chính xác hơn rất nhiều lịch được châu Âu sử dụng vào thời đó (lịch Gregory). Có giả thiết cho rằng người Maya đã kế thừa cách tính lịch từ các nền văn minh cổ Zapotecs (ở Mont Alban) và Olmecs (ở La venta và Tres Zapotes)[1]. Tuy thế, người Maya lại không sử dụng độ dài tính toán thời gian một năm vào lịch của họ. Người Maya sử dụng lịch (gọi là lịch Maya) trên cơ sở năm Mặt Trời với 365 ngày. Một năm Mặt Trời được chia thành 18 tháng, mỗi tháng có 20 ngày (dùng hệ đếm cơ số 20), năm ngày còn lại được đưa vào cuối năm. Các ngày trong tháng được ghi bằng số thứ tự từ 0 đến 19 trước tên tháng (0 đến 4 cho tháng thiếu, cuối năm có 5 ngày). Theo lịch này, các năm nối tiếp nhau không ngừng, không có năm nhuận. Như vậy kết quả là lịch sẽ bị sai lệch lùi về một ngày trong vòng 4 năm. Khi so sánh với lịch Julius, dùng ở châu Âu từ thời Đế quốc La Mã cho đến tận thế kỷ 16, thì độ sai số cho một ngày là mỗi 128 năm; với lịch Gregory hiện đại, thì sai số sấp xỉ một ngày mỗi 3.257 năm.
Lịch của thầy bói
Ngày xưa, những người da đỏ Quiche, Ixil và Mam vẫn dùng lịch Maya truyền thống với một năm có 260 ngày để dự đoán tương lai. Để giải thích vì sao bộ lịch lại gồm 260 ngày, người ta đã phỏng vấn nhiều thầy bói ở Chichicastenango và Momstenango và phát hiện ra rằng: Việc chọn độ dài của năm nay không phải do ngẫu nhiên mà là do phù hợp với thời gian mang thai của con người. Hệ đếm 20 cho phép chia một năm 260 ngày thành 13 tháng, mỗi tháng 20 ngày, kết hợp với một trong 20 tên gọi các con vật, các lực lượng tự nhiên, các quan niệm hay khái niệm mà ý nghĩa không còn lưu truyền đến ngày nay.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét